Lockheed P-3 Orion
Lockheed P-3 Orion là một máy bay bốn động cơ cánh quạt chống ngầm và giám sát lãnh hải phát triển bởi Hải Quân Hoa Kỳ và được giới thiệu vào những năm 1960. Lockheed dựa trên khung của chiếc máy bay thương mai Lockheed L-188 Electra để phát triển nên Orion. Orion có thể được phân biệt một cách dễ dàng khỏi một chiếc Electra nhờ có chiếc đuôi giống như một mũi kim rất đặc thù có tên gọi "MAD Boom", được dùng để tìm dấu hiệu từ tính của tàu ngầm.
Qua nhiều năm, chiếc máy bay đã có rất nhiều điểm mới trong thiết kế, đáng chú ý nhất là các gói nâng cấp hệ thống điện tử. Chiếc P-3 Orion vẫn còn đang được dùng bởi khá nhiều lực lượng Hải Quân và Không Quân của các nước trên thế giới, chủ yếu có nhiệm vụ tuần tra lãnh hải, trinh sát, mặt trận chống hạm và chống ngầm. Có tổng cộng 734 chiếc P-3 đã được sản xuất và trong năm 2012, nó gia nhập đội ngũ máy bay quân sự bao gồm máy bay ném bom chiến lược Boeing B-52 Stratofortress, máy bay chở dầu và tiếp nhiên liệu trên không Boeing KC-135 Stratotanker và máy bay vận tải C-130 Hercules trong danh sách các máy bay đã phục vụ Quân đội Hoa Kỳ trong liên tiếp 50 năm. Các máy bay P-3 còn lại của Hải Quân Hoa Kỳ sẽ được sửa chữa và nâng cấp lên biến thể mới là P-8A Poseidon.
Phát triển
[sửa | sửa mã nguồn]Nguồn gốc
[sửa | sửa mã nguồn]Tháng 8 năm 1957, Hải Quân Hoa Kỳ đề nghị các máy bay chống ngầm cũ sử dụng động cơ piston là Lockheed P2V Neptune (sau đổi tên P-2) và Martin P5M Marlin (sau đổi tên P-5) được thay thế với một máy bay tiên tiến để tiến hành các cuộc tuần tra trên biển và mặt trận chống ngầm. Chuyển hóa từ một chiếc máy bay đã có sẵn được dự đoán sẽ tiết kiệm chi phí và cho phép chiếc máy bay mới được nhập ngũ một cách nhanh chóng. Lockheed đề nghị một phiên bản quân đội của chiếc máy bay L-188 Electra, mặc dù chính chiếc máy bay vẫn còn đang được phát triển và chưa được bay thử bao giờ. Tháng 4 năm 1958, Lockheed chiến thắng trong cuộc thi đấu và giành được một hợp đồng nghiên cứu và phát triển đầu tiên vào tháng 5.
Nguyên mẫu YP3V-1/YP-3A, mã số 148276 được cải tiến từ khung chiếc máy bay Electra thứ ba, mã 1003. Chuyến bay đầu tiên của nguyên mẫu khí động học, ban đầu có mã là YP3V-1, được thực hiện vào ngày 19 tháng 8 năm 1958. Trong khi dựa trên nguyên lý của chiếc Lockheed L-188 Electra, chiếc máy bay mới này có cấu trúc khá khác biệt so với vật mẫu của nó. Chiếc máy bay có phần đầu ngắn hơn 7 feet (2.1 m) ở phía trước hai cánh với một khoang chứa bom, phần mũi có mái che radar nhọn hơn, chiếc đuôi "mũi kim" đặc biệt có chức năng phát hiện tàu ngầm qua Thiết bị Dò từ tính Dị thường, ở cánh có giá treo vũ khí và các cải tiến kỹ thuật ở cả bên trong và bên ngoài khung máy bay. Orion có bốn động cơ cánh quạt Allison T56, cho phép chiếc máy bay có vận tốc tối đa 411 hải lý (761 km/h; 473 mph), giúp nó có thể được so sánh với các tiêm kích cánh quạt nhanh nhất, hay thậm chí là các máy bay động cơ phản lực như là máy bay ném bom Fairchild Republic A-10 Thunderbolt II hay Lockheed S-3 Viking. Các máy bay tuần tra tương tự bao gồm chiếc Ilyushin II-38 của Xô Viết hay chiếc Breguet Atlantique của Pháp, trong khi người Anh biến thể máy bay phản lực de Havilland Comet thành Hawker Siddeley Nimrod.
Phiên bản sản xuất đầu tiên, số hiệu P3V-1, cất cánh vào ngày 15 tháng 4 năm 1961. Phi đội đầu tiên được chuyển đến Phi đoàn Tuần tra Số 8 (Patrol Squadron Eight - VP-8) và Phi đoàn Tuần tra Số 44 (Patrol Squadron Forty Four - VP-44) tại Sân bay Hải Quân Patuxent River, bang Maryland bắt đầu vào tháng 8 năm 1962. Ngày 18 tháng 11 năm 1962, Quân đội Hoa Kỳ cải tiến một hệ thống số hiệu thống nhất cho tất cả quân chủng, với chiếc máy bay được đổi tên thành P-3 Orion. Màu sơn được thay đổi từ những năm 1960 thành màu xanh trắng bóng, đến giữa 1960 thành trắng xám bóng, giữa 1990 có lớp sơn hoàn thiện màu xám tầm nhìn thấp với ký hiệu trên máy bay ít và nhỏ hơn. Đầu những năm 2000, màu sơn chuyển thành màu xám bóng với các ký hiệu màu có kích thước nguyên bản trên thân máy bay. Số hiệu máy bay được in cỡ lớn trên cánh đuôi những số hiệu phi đội trên thân máy bay vẫn bị bỏ qua.
Cải tiến tiếp theo
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 1963, Cục Vũ khí Hải Quân (U.S. Navy Bureau of Weapons - BuWeps) ký một hợp đồng với Nhánh Hệ thống Quốc phòng Univac của công ty Sperry-Rand để thiết kế, chế tạo và thử nghiệm một chiếc máy tính để điều khiển đồng thời hàng loạt các cảm biến và các màn hình hiển thị mới được phát triển của chiếc P-3 Orion. Dự án A-NEW có mục tiêu thiết kế và, sau hàng loạt cuộc thử nghiệm, chế tạo thành công một nguyên mẫu có tên Hệ thống Máy tính CP-823/U, Univac 1830, mã A-1, A-NEW MOD3. Chiếc máy tính CP-823/U được giao cho Trung tâm Phát triển Không Quân Hải Quân (Naval Air Development Center - NADC) tại Johnsville, bang Pennsylvania năm 1965, dẫn trực tiếp đến sự hình thành và phát triển của các thế hệ máy tính sau này được trang bị trên phiên bản P-3C Orion.
Ba chiếc máy bay Electra mất tích trong hàng loạt các vụ tai nạn thảm khốc từ giữa tháng 2 năm 1959 đến tháng 3 năm 1960. Sau vụ tai nạn hàng không thứ ba, Cơ quan Hàng không Liên bang Hoa Kỳ (Federal Aviation Administration - FAA) hạn chế tốc độ bay tối đa của Electra cho đến khi nguyên nhân dẫn đến tai nạn được làm rõ. Sau một cuộc điều tra diện rộng, hai trong số ba vụ tai nạn (từ tháng 11 năm 1959 đến tháng 3 năm 1960) được tìm thấy là do cơ gắn kết quá yếu, không thể chịu được luồn khí xoáy có thể ảnh hưởng đến các động cơ phía ngoài, các rung động mạnh tăng lên cho đến khi các cánh bị xé ra khỏi thân máy bay. Công ty ứng dụng một dự án sửa đổi đắt đỏ, đặt tên là Chương trình Thành tựu Lockheed Electra (Lockheed Electra Achievement Program - LEAP) bao gồm các cơ gắn kết và cấu trúc cánh hỗ trợ cho các cơ được gia cố, với một số chỗ trên cánh được thay thế bằng những vật liệu dày hơn. Tất cả những chiếc Electra còn sống sót trong số 145 chiếc được thi công được sửa đổi bằng chính kinh phí do Lockheed bỏ ra tại nhà máy, mỗi chiếc mất 20 ngày để sửa chữa và thay thế. Những thay đổi này sau đó được kết hợp vào những chiếc Electra được xây dựng sau này.
Những chuyển nhượng cho những chiếc Electra sau đó bị hạn chế vì lý do những sửa chữa không hoàn toàn xóa bỏ được danh tiếng bị "phá hoại", máy bay cánh quạt cũng nhanh chóng bị thay thế bởi những chiếc máy bay phản lực nhanh hơn. Trong vai trò quân đội khi mà việc tiết kiệm nhiên liệu quan trọng hơn tốc độ, chiếc Orion đã phục vụ hơn 50 năm sau khi được trình diễn vào năm 1962. Cho dù bị qua mặt bởi sự bền bỉ của chiếc Lockheed C-130 Hercules, 734 chiếc P-3 đã được sản xuất vào những năm 1990. Lockheed Martin mở một dây chuyền sản xuất cánh máy bay P-3 mới vào năm 2008 như là một phần của Chương trình Kéo dài Tuổi thọ (Service Life Extension Program - ASLEP) cho lúc giao hàng vào năm 2010. Một dự án ASLEP hoàn chỉnh thay thế các cánh ngoài, phần dưới của cánh trung tâm và cánh đuôi được nâng cấp bằng các phần mới hơn.
Năm 1990, trong một cuộc tìm kiếm một chiếc máy bay mới sẽ là người nối đuôi của P-3, phiên bản mới là P-7 được chọn trong một cuộc tỉ thí với một phiên bản Hải Quân-hóa của chiếc máy bay hai động cơ phản lực Boeing 757, nhưng chương trình này sau đó bị hủy bỏ. Trong một chương trình thứ hai để tìm ra một chiếc máy bay nối đuôi P-3, chiếc Orion 21 tiên tiến của Lockheed Martin, một chiếc máy bay khác mang theo thiết kế của P-3, thua thiết kế Boeing P-8 Poseidon, một phiên bản của Boeing 737, tham gia biên chế năm 2013.
Biến thể
[sửa | sửa mã nguồn]- WP-3D:
- EP-3E Aries:
- EP-3E Aries II:
- AP-3C:
- CP-140 Aurora:
- CP-140A Arcturus:
- P-7
- Orion 21
Quốc gia sử dụng
[sửa | sửa mã nguồn]Quốc gia từng sử dụng
[sửa | sửa mã nguồn]Dân sự
[sửa | sửa mã nguồn]- USA
- NASA
- Bộ an ninh nội địa Hoa Kỳ / Cục hải quan và biên phòng / Văn phòng hàng không và hàng hải
- Aero Union
Tính năng kỹ chiến thuật (P-3C Orion)
[sửa | sửa mã nguồn]Đặc điểm tổng quát
- Kíp lái: 11[1]
- Chiều dài: 116 ft 10 in (35,6 m[2])
- Sải cánh: 99 ft 8 in[2] (30,4 m)
- Chiều cao: 38 ft 8 in[2] (11,8 m)
- Diện tích cánh: 1300 ft² (120,8 m²)
- Kết cấu dạng cánh: NACA 0014-1.10 (Root) – NACA 0012-1.10 (Tip)
- Trọng lượng rỗng: 77.200 lb (35.000 kg[2])
- Trọng lượng có tải: 135.000 lb (61.400 kg)
- Trọng tải có ích: 57.800 lb (26.400 kg)
- Trọng lượng cất cánh tối đa: 142.000 lb (64.400 kg[2])
- Động cơ: 4[1] × Allison T56-A-14[1] kiểu turboprop[1], 4.600 shp[1] (3.700 kW) mỗi chiếc
- Cánh quạt: 4 lá Hamilton Standard cánh quạt[1], 1 mỗi động cơ
- Đường kính cánh quạt: 13 ft 6 in (4,11 m)
Hiệu suất bay
- Vận tốc cực đại: 411 kn[1] (750 km/h)
- Vận tốc hành trình: 328 kn[1] (610 km/h)
- Tầm bay: 2.380 nmi[1] (4.400 km)
- Bán kính chiến đấu: 1.346 nmi[1] (2.490 km)
- Tầm bay chuyển sân: 4.830 nmi[2] (8.944 km)
- Thời gian bay: 16 h[2]
- Trần bay: 34.000 ft[1] (10.400 m)
- Vận tốc lên cao: 3.140 ft/phút (16 m/s)
- Tải trên cánh: 107 lb/ft² (530 kg/m²)
- Công suất/trọng lượng: 0,03 hp/lb (0,06 kW/kg)
Trang bị vũ khí
- Súng: None
- Giá treo: 10 giá treo và khoang quân giới có 8 giá treo tải được 20.000 lb (9.100 kg)[1] và kết hợp mang được:
- Rocket: Không
- Tên lửa: ***Tên lửa không đối diện: AGM-65 Maverick, AGM-84 Harpoon, AGM-84 Standoff Land Attack Missile (SLAM-ER)[1]
- Bom: ***Bom chìm, Mark 20 torpedo, seri MK80 (MK82, MK83, MK84), bom hạt nhân B57
- Khác: ***Ngư lôi Mk 44 (hầu hết đã ngừng sử dụng), Mk 46,[1] Mk 50, Mk 54 hoặc MU90 Impact
- Mìn Mk 25, Mk 39, Mk 55, Mk 56, Mk 60 CAPTOR hoặc Mk 65 Quickstrike[3]
- Mìn Stonefish (Australia)
- Sonobuoy chủ động và bị động
Hệ thống điện tử
- RADAR: Radar giám sát hàng hải Raytheon AN/APS-115, Radar tìm kiếm AN/APS-137D(V)5[3]
- IFF: APX-72, APX-76, hệ thống phân biệt bạn thù APX-118/123 (IFF)[3]
- EO/IR: ASX-4 Advanced Imaging Multispectral Sensor (AIMS), ASX-6 Multi-Mode Imaging System (MMIS)
- ESM: ALR-66 Radar Warning Receiver, ALR-95(V)2 Specific Emitter Identification/Threat Warning
- Hazeltine Corporation AN/ARR-78(V) sonobuoy receiving system[3]
- Fighting Electronics Inc AN/ARR-72 sonobuoy receiver[3]
- IBM Proteus UYS-1 acoustic processor
- AQA-7 directional acoustic frequency analysis and recording sonobuoy indicators[3]
- AQH-4 (V) sonar tape recorder[3]
- ASQ-81 magnetic anomaly detector (MAD)[3]
- ASA-65 magnetic compensator[3]
- Lockheed Martin AN/ALQ-78(V) electronic surveillance receiver[3]
Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]
- Máy bay liên quan
- Máy bay tương tự
- EADS CASA C-295
- Avro Shackleton
- Boeing P-8 Poseidon
- Bombardier Aerospace DHC-8-MPA-D8
- Breguet Atlantique
- Canadair CP-107 Argus
- EADS CASA C-295 MPA
- Hawker-Siddeley Nimrod
- Ilyushin Il-38
- Shin Meiwa PS-1
- Kawasaki P-1
- Danh sách liên quan
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]Ghi chú
[sửa | sửa mã nguồn]Tài liệu
[sửa | sửa mã nguồn]- "AP-3C Orion maritime patrol aircraft." Lưu trữ 2008-12-19 tại Wayback Machine Royal Australian Air Force, ngày 28 tháng 11 năm 2008. Truy cập: ngày 14 tháng 7 năm 2010.
- Brookes, Andrew. Destination Disaster. London: Ian Allan, 2002. ISBN 0-7110-2862-1.
- Eden, Paul biên tập (1 tháng 6 năm 2006). The Encyclopedia of Modern Military Aircraft. London: Amber Books, 2004. ISBN 1-904687-84-9.
- McCaughlin, Andrew. "Quiet Achiever." Australian Aviation, December 2007.
- Polmar, Norman. The Naval Institute Guide to the Ships and Aircraft of the U.S. fleet. Annapolis, Maryland, USA: Naval Institute Press, 2005. ISBN 1-59114-685-2.
- Reade, David. The Age of Orion: The Lockheed P-3 Orion Story. Atglen, Pennsylvania: Schiffer publications, 1998. ISBN 0-7643-0478-X.
- Upgrade of the Orion Maritime Patrol Aircraft Fleet. Lưu trữ 2009-02-24 tại Wayback Machine Canberra: Australian National Audit Office (ANAO), 2005. ISBN 0-642-80867-8.
- Winchester, Jim, ed. "Lockheed P-3 Orion." Military Aircraft of the Cold War (The Aviation Factfile). London: Grange Books plc, 2006. ISBN 1-84013-929-3.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- P-3 Orion Computer Development History and Project A-New
- P-3C fact file Lưu trữ 2011-03-16 tại Wayback Machine
- P-3 history, U.S. Navy site Lưu trữ 2008-04-10 tại Wayback Machine
- Standard Aircraft Characteristics Chart for an P-3C (includes 3-view drawings) Lưu trữ 2010-07-28 tại Wayback Machine
- P-3 Orion Research Group
- NASA Wallops Flight Facility Aircraft Office operators of the NASA P-3 Lưu trữ 2006-01-03 tại Wayback Machine
- Các bài viết có bản mẫu Hatnote dẫn hướng đến một trang không tồn tại
- Máy bay Lockheed
- Tình báo tín hiệu
- Máy bay tuần tra Hoa Kỳ 1950–1959
- Máy bay chống tàu ngầm Hoa Kỳ 1950–1959
- Máy bay quân sự Hoa Kỳ thập niên 1950
- Máy bay chiến đấu
- Máy bay tuần tra
- Máy bay chống tàu ngầm
- Máy bay tác chiến điện tử
- Máy bay trinh sát
- Máy bay bốn động cơ
- Máy bay cánh quạt
- Máy bay phản lực
- Máy bay cánh dưới
- Máy bay trong chiến tranh Việt Nam
- Máy bay động cơ tuốc bin cánh quạt