Bước tới nội dung

Seattle Seahawks

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Seattle Seahawks
Mùa giải hiện tại
Thành lập 4 tháng 6 năm 1974; 50 năm trước (1974-06-04)[1][2]
Mùa giải đầu tiên: 1976
Thi đấu tại Lumen Field
Seattle, Washington
Đặt trụ sở tại Virginia Mason Athletic Center
Renton, Washington[3]
Seattle Seahawks logo
Seattle Seahawks logo
Seattle Seahawks wordmark
Seattle Seahawks wordmark
LogoWordmark
Giải đấu/hiệp hội liên kết

National Football League (1976–nay)

Đồng phục hiện tại
Màu sắcxanh dương đậm, xanh lá, xám[4][5][6]
              
Linh vậtBlitz, Boom, Taima the Hawk (live Augur hawk)
Trang webseahawks.com
Nhân sự
Chủ sở hữuThe Paul Allen Estate[7]
Chủ tịch hội đồng quản trịJody Allen
Chủ tịchChuck Arnold[8]
Giám đốcJohn Schneider
Huấn luyện viên trưởngMike Macdonald
Lịch sử đội
  • Seattle Seahawks (1976–nay)
Biệt danh
Các chức vô địch
Vô địch giải đấu (1)
Số lần vô địch liên đoàn (3)
Số lần đứng đầu phân khu (11)
Đấu loại trực tiếp (20)
Sân nhà
Các chủ sở hữu

Seattle Seahawks là một đội bóng bầu dục chuyên nghiệp của Mỹ có trụ sở tại Seattle, Washington và là đại diện của bang Washington. Seattle Seahawks hiện là thành viên của National Football Conference thuộc National Football League (NFL). Sân nhà của đội là Lumen Field ở Seattle, Washington.

Đội Seahawks có tổng cộng 11 lần đứng đầu phân khu, và 3 lần trận thắng trận chung kết liên đoàn, và cũng là đội duy nhất từng thi đấu tại trận chung kết liên đoàn của AFC và NFC. Đội đã 3 lần thi đấu tại Super Bowl, với các kết quả là thua 21–10 tại Super Bowl XL trước Pittsburgh Steelers, đánh bại Denver Broncos với tỉ số 43–8 để có chức vô địch đầu tiên tại Super Bowl XLVIII, và thất bại 28–24 trước New England Patriots tại Super Bowl XLIX.

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Kỷ nguyên Nordstrom / Sarkowsky (1976–1988)

[sửa | sửa mã nguồn]

Tiếp theo việc hợp nhất AFL và NFL năm 1970, NFL quyết định tăng số đội từ 26 lên 28 đội.[10] Vào tháng 6 năm 1972, tổ chức Seattle Professional Football Inc. thông báo ý định của họ về việc sở hữu 1 đội bóng NFL tại Seattle.[11] Vào tháng 6 năm 1974, NFL cho phép thành phố Seattle sở hữu 1 đội bóng bầu dục.[12] Vào tháng 12 cùng năm, ủy viên NFL Peter Rozelle thông báo việc ký kết hợp đồng với đội bóng bởi Lloyd W. Nordstrom, người thay mặt gia đình Nordstrom với tư cách là cổ đông chính của đội bóng.[13]

Vào tháng 3 năm 1975, John Thompson, khi đó là giám đốc điều hành của NFL Management Council, được thuê vào vị trí giám đốc quản lý của đội bóng này. Tên đội Seattle Seahawks được lựa chọn vào ngày 17 tháng 6 năm 1975, sau 1 cuộc thi đặt tên với hơn 20.000 lượt tham gia và hơn 1700 tên gọi khác nhau.[14] Trong đó có một số tên gọi như là skippers, pioneers, và lumberjacks.[15]

Thompson thuê trợ lý huấn luyện viên Jack Patera của Minnesota Vikings làm huấn luyện viên trưởng đầu tiên của Seahawks, được thông báo vào ngày 3 tháng 1 năm 1976. Kỳ tuyển quân mở rộng (expansion draft) được tổ chức vào ngày 30–31 tháng 3, với các đội Seattle và Tampa Bay Buccaneers có các lượt chọn cầu thủ tự do từ 26 đội khác.[16] Đội Seahawks được trao tặng lượt chọn thứ 2 tại NFL draft 1976, và họ lựa chọn tiền vệ phòng ngự chặn Steve Niehaus. Đội lần đầu ra sân vào ngày 1 tháng 8 năm 1976, trong trận đấu tiền mùa giải trước San Francisco 49ers tại sân vận động mới khánh thành Kingdome.

Hậu vệ sâu được đề cử vào sảnh danh vọng bóng bầu dục Kenny Easley là cầu thủ dẫn dắt đội hình phòng ngự của Seattle những năm 1980,[17] đồng thời cũng là cầu thủ phòng ngự hàng đầu tại NFL[18] và là một trong những cầu thủ xuất sắc nhất thi đấu cho Seahawks.[19]

Seahawks là đội duy nhất chuyển liên đoàn 2 lần sau khi sát nhập AFL–NFL.[20] Đội bắt đầu thi đấu vào năm 1976 tại phân khu NFC West nhưng đổi liên đoàn với Buccaneers sau 1 mùa giải và tham gia phân khu AFC West. Sự sắp xếp này bởi ban tổ chức giải đấu là 1 phần của kế hoạch mở rộng năm 1976, giúp cho đội mở rộng nào cũng có thể đấu với nhau 2 lần và đấu với các đội NFL khác 1 lần trong 2 mùa giải đầu tiên. Đội Seahawks thắng toàn bộ các trận khi đối đầu với Buccaneers trong 2 mùa giải đầu tiên, và trận thắng đầu tiên trước Buccaneers cũng là chiến thắng đầu tiên của họ tại NFL.[21][22]

Năm 1984, Seahawks thuê Chuck Knox làm huấn luyện viên trưởng. Mùa giải đó họ có thành tích 9–7, và lần đầu tiên Seahawks thi đấu ở hậu mùa giải, đánh bại Denver Broncos tại vòng wild card và sau đó đánh bại Miami Dolphins, trước khi thất bại trước nhà vô địch Super Bowl Los Angeles Raiders. Mùa giải tiếp theo, Seahawks có thành tích tốt nhất trong lịch sử 12–4, và đó là thành tích xuất sắc nhất của họ cho đến mùa giải 2005.[23] Knox được trao giải thưởng huấn luyện viên của năm tại NFL.[24]

Kỷ nguyên Behring / Hofmann (1988–1996)

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào năm 1988, Ken Behring và cộng sự Ken Hofmann mua lại đội bóng với giá là 80 triệu đô la Mỹ.[25][26][27] Seahawks lần đầu đứng đầu phân khu năm 1988, nhưng không thể tham dự vòng loại trực tiếp trong 3 mùa giải tiếp theo, dẫn đến sự rời đi của Knox.[28] Hầu hết trong thập kỷ 1990, Seahawks tiếp tục phải gặp nhiều khó khăn. Họ trải qua 3 mùa giải có số trận thua nhiều hơn số trận thắng (từ 1992–1994) dưới thời HLV trưởng Tom Flores, trong đó có thành tích tệ nhất lịch sử đội bóng 2–14 năm 1992. Sau khi mùa giải 1994 kết thúc, Flores bị sa thải và Dennis Erickson được đưa lên làm huấn luyện viên.[29][30][31][32][33]

Kỷ nguyên Paul Allen (1997–nay)

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào năm 1996, Behring và Hofmann chuyển trụ sở đội tới Anaheim, California, mặc dù đội vẫn thi đấu tại Seattle. Đội suýt nữa đã được di dời đi, và từng bị vỡ nợ trong một khoảng thời gian ngắn. NFL đe doạ Behring rằng sẽ phạt ông ấy 500.000 đô la Mỹ mỗi ngày nếu không chuyển lại trụ sở đội về Seattle;[34] vì vậy, Behring và Hofmann bán lại đội cho người đồng sáng lập Microsoft Paul Allen vào năm 1997 với giá 200 triệu đô la Mỹ.[35]

Nhiệm kỳ làm huấn luyện viên trưởng của Erickson cũng kết thúc sau mùa giải 1998, khi Seahawks tiếp tục không thể tham dự vòng loại trực tiếp trong 4 mùa giải ông tại vị, nối dài chuỗi không tham dự vòng loại trực tiếp lên 10 mùa giải liên tiếp.[36]

Những năm của Mike Holmgren (1999–2008)

[sửa | sửa mã nguồn]
Matt Hasselbeck là tiền vệ chính của Seahawks từ năm 2001 tới năm 2010 và dẫn dắt đội tới 6 lần tham dự hậu mùa giải cũng như 1 lần có mặt tại Super Bowl.

Vào mùa giải 1999, Mike Holmgren trở thành huấn luyện viên trưởng của Seahawks.[37] Ông dẫn dắt đội trong 10 mùa giải.[38] Đội Seahawks lần thứ 2 đứng đầu phân khu, cũng như được thi đấu vòng wild card trong playoff, nhưng thất bại trước Miami Dolphins với tỉ số 20–17.

Vào mùa giải 2002, Seahawks trở lại phân khu NFC West theo kế hoạch tái cấu trúc NFL với mỗi liên đoàn có 4 phân khu, mỗi phân khu có 4 đội. Việc tái cấu trúc này biến phân khu AFC West bao gồm các đội của AFL trước thời kỳ hợp nhất với NFL bao gồm Denver, San Diego, Kansas City, và Oakland.[39] Cùng trong năm đó, đội Seahawks khánh thành sân nhà mới Seahawks Stadium sau khi thi đấu 2 năm tại sân vận động Husky vì vụ nổ của sân Kingdome năm 2009.[40]

Vào mùa giải 2005, Seahawks có thành tích tốt nhất trong lịch sử đội bóng 13–3 (lập lại thành tích này vào mùa giải 2013) [41] trong đó bao gồm chiến thắng 42–0 trước Philadelphia Eagles tại Monday Night Football.[42] Thành tích này giúp họ có vị trí thứ nhất lại liên đoàn NFC.[41] Đội đánh bại Washington Redskins tại vòng phân khu và Carolina Panthers tại trận chung kết liên đoàn, nhưng thất bại trước Pittsburgh Steelers tại Super Bowl XL. Trận thua đó có rất nhiều tranh cãi; NFL Film xếp trận đấu này ở vị trí thứ 8 trong số 10 trận đấu nhiều sự tranh cãi nhất từ trọng tài.[43] Trọng tài Bill Leavy thừa nhận rằng ông có bỏ lỡ nhiều lần thổi phạt khiến trận đấu rẽ sang hướng khác.[44] Trước năm 2005, Seahawks chưa từng thắng 1 trận playoff kể từ mùa giải 1984, 1 khoảng thời gian 21 năm, với chuỗi 6 trận thua liên tục, đồng hạng 3 trong lịch sử. Chuỗi thua kết thúc với chiến thắng 20–10 trước Washington Redskins tại playoff 2005.[45]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “On This Date: Seattle Awarded NFL Franchise”. Seahawks.com. NFL Enterprises, LLC. 4 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2022.
  2. ^ “Seattle Seahawks Team Facts”. ProFootballHOF.com. NFL Enterprises, LLC. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2022.
  3. ^ “The Virginia Mason Athletic Center, VMAC, Seattle Seahawks Headquarters”. Seahawks.com. NFL Enterprises, LLC. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2024.
  4. ^ “Seahawks Unveil Alternate Logo”. Seahawks.com. NFL Enterprises, LLC. 6 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2021. The alternate look shows the team's primary Seahawks logo, which is seen at a profile angle, facing forward. It maintains the same color scheme — College Navy, Wolf Grey and Action Green — that Seattle unveiled in 2012 when the NFL introduced Nike as the League's new uniform provider.
  5. ^ “Franchise History” (PDF). 2023 Seattle Seahawks Media Guide (PDF). NFL Enterprises, LLC. 2 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2023. Nike unveils the new NFL uniform design in New York, and Kam Chancellor represents the Seahawks in the fashion show. Along with the new uniform, the Seahawks unveil a new tweaked logo that freshens up the team colors. The new team colors are college navy, action green and wolf grey.
  6. ^ “Seattle Seahawks Team Capsule” (PDF). 2022 Official National Football League Record and Fact Book (PDF). NFL Enterprises, LLC. 20 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2023.
  7. ^ “Seahawks Staff, Management, Front Office”. Seahawks.com. NFL Enterprises, LLC. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2019.
  8. ^ “Chuck Arnold Named President Of Seahawks And First & Goal Inc”. Seahawks.com. NFL Enterprises, LLC. 24 tháng 9 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2018.
  9. ^ Farnsworth, Clare (25 tháng 8 năm 2013). “Catching up with: Terry Taylor”. Seahawks.com. NFL Enterprises, LLC. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2018. What he did: The Seahawks' first-round draft choice in 1984 out of Southern Illinois, Terry Taylor started 52 games at cornerback through the 1988 season and then returned in 1994 to start three more in an injury-depleted secondary. Taylor's 16 career interceptions for the Seahawks rank No. 10 on the franchise's all-time list and he returned two for touchdowns. He also appeared in the Seahawks' infamous Locker Room Rock video in 1985.
  10. ^ “NFL History: 1961–1970”. NFL.com. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2013.
  11. ^ “Look Back”. Seattle Post-Intelligencer. 14 tháng 6 năm 2006. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2013.
  12. ^ Farnsworth, Clare (15 tháng 6 năm 2013). “ON THIS DATE: FIRST STEP TOWARD SECURING SEAHAWKS TAKEN”. Seahawks.com. NFL Enterprises, LLC. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2019.
  13. ^ “BUCS AND SEAHAWKS JOINED NFL IN '76”. Pro Football Hall of Fame. 1 tháng 1 năm 2005. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2016.
  14. ^ “The A-Z On How The Seahawks Got Their Name”. Seattle Seahawks. 17 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2020.
  15. ^ How EVERY Team Got Its Name & Identity! (bằng tiếng Anh), 11 tháng 9 năm 2019, truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2023
  16. ^ “1976 NFL Expansion Draft – Pro Football Hall of Fame”. Pro Football Hall of Fame. 7 tháng 2 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 9 năm 2004. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2013.
  17. ^ “1987 Topps#183 Kenny Easley” (JPG). Topps. Topps Chewing Gum, Inc. 1987. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2017.
  18. ^ Kapadia, Sheil (5 tháng 8 năm 2017). “Kenny Easley finally gets closure with Hall of Fame induction”. ESPN.com. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2024.
  19. ^ “1986 McDonald's Seahawks #45 Kenny Easley” (JPG). McDonald's. McDonald's Corporation. 1986. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2017.
  20. ^ Dugar, Michael-Shawn (29 tháng 9 năm 2022). “What Seahawks lost, gained in AFC-to-NFC move in NFL realignment 20 years ago”. The New York Times. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2024.
  21. ^ Baskin, Ben (22 tháng 11 năm 2016). “39 flags for 310 penalty yards: Revisiting the most penalized game in modern NFL history”. Sports Illustrated. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2022.
  22. ^ Smith, Scott (23 tháng 11 năm 2016). “Series History: Buccaneers-Seahawks”. buccaneers.com. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2022.
  23. ^ “Seattle Seahawks”. NFL.com. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2015.
  24. ^ “Former NFL coach, Pa. native Chuck Knox dies at 86”. pennlive.com. Associataed Press. 14 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2022.
  25. ^ “Kenneth Behring, a self-made California millionaire who described his...”. UPI (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2020.
  26. ^ Goldstein, Richard (30 tháng 6 năm 2019). “Ken Behring, Former Seattle Seahawks Owner, Dies at 91”. The New York Times (bằng tiếng Anh). ISSN 0362-4331. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2020.
  27. ^ “Seahawks owner has a Super goal”. Spokane Chronicle. Associated Press. 30 tháng 8 năm 1988. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2020.
  28. ^ Kawakami, Tim (28 tháng 12 năm 1991). “Seahawks' Knox Resigns : Pro football: Shaw says Rams might be interested in him as a replacement for Robinson”. Los Angeles Times. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2024.
  29. ^ “1992 Seattle Seahawks Rosters, Stats, Schedule, Team Draftees”. Pro-Football-Reference.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2024.
  30. ^ “1993 Seattle Seahawks Rosters, Stats, Schedule, Team Draftees”. Pro-Football-Reference.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2024.
  31. ^ “1994 Seattle Seahawks Rosters, Stats, Schedule, Team Draftees”. Pro-Football-Reference.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2024.
  32. ^ “Seahawks Fire Flores And His Entire Staff -- Successor Not Named; Walsh Role Possible”. The Seattle Times. 29 tháng 12 năm 1994. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2024.
  33. ^ “Erickson Leaving Miami for Seahawks: Pro football: Coach reportedly gets $1-million per year and will be introduced today”. Los Angeles Times. Associated Press. 12 tháng 1 năm 1995. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2024.
  34. ^ “Seahawks history: Ken Behring and when we almost lost the Seattle Seahawks”. 22 tháng 1 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2018.
  35. ^ “NFLOwners Approve Sale Of Seahawks”. Spokesman.com. Associated Press. 20 tháng 8 năm 1997. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2024.
  36. ^ “Hawks Fire Coach Erickson”. CBS News. 28 tháng 12 năm 1998. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2024.
  37. ^ Litsky, Frank (9 tháng 1 năm 1999). “PRO FOOTBALL; Seahawks Make Holmgren Top Paid”. The New York Times. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2024.
  38. ^ “Mike Holmgren Record, Statistics, and Category Ranks”. Pro-Football-Reference.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2024.
  39. ^ Farmer, Sam (23 tháng 5 năm 2001). “NFL Votes to Realign in 2002”. Los Angeles Times. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2019.
  40. ^ Gabel, Sue (30 tháng 12 năm 2012). “History of Tailgating in Seattle”. CBS Seattle. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2019.
  41. ^ a b Johnson, Scott M. (25 tháng 12 năm 2005). “Home Cooking, Northwest Style”. Kitsap Sun. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2019.
  42. ^ “In Defensive Showcase, Seahawks Rout Eagles”. The New York Times. Associated Press. 6 tháng 12 năm 2005. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2019.
  43. ^ “Top 10 controversial calls”. NFL.com. 3 tháng 6 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2013.
  44. ^ “NFL ref admits mistakes in Super Bowl”. ESPN.com. August 7, 2010. 7 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2017.
  45. ^ Jenkins, Lee (15 tháng 1 năm 2006). “Streak of Futility Is Put to Rest”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2019.